Chăm sóc nái mang thai
Trong
thời gian có chửa heo nái có nhiều đặc điểm thay đổi, do vậy việc chăm
sóc nuôi dưỡng chúng phải phù hợp và đảm bảo để có số con sơ sinh cao;
trọng lượng trung bình của heo con cai sữa cao; heo con sinh ra khỏe
mạnh và có sức đề kháng tốt.
II. ĐẶC ĐIỂM SINH LÝ CỦA HEO NÁI CÓ CHỬA
1. Đặc điểm phát triển bào thai heo1.1. Đặc điểm phát triển bào thai và các tổ chức có liên quan- Đặc điểm phát triển bào thai: Ngay sau khi thụ tinh, hợp tử đã bắt đầu sử dụng chất dinh dưỡng của tử cung làm chất dinh dưỡng cho mình. Ngày thứ 11 hợp tử đã cắm sâu vào sừng tử cung gọi là hiện tượng làm tổ ở sừng tử cung. Ngày thứ 18 nhau thai hình thành và có chức năng rõ rệt. Tốc độ phát triển của bào thai rất nhanh. Như vậy thai càng lớn hàm lượng nước càng giảm, lượng vật chất khô tích luỹ càng tăng, lipid, protein tích luỹ tăng. Vì vậy nhu cầu dinh dưỡng của heo mẹ sẽ tăng. Nhưng thực tế thì trong giai đoạn có chửa, nội tiết thay đổi dẫn tới quá trình trao đổi chất của heo mẹ thay đổi theo phương thức "đồng hoá chiếm ưu thế so với dị hoá", nên nhu cầu dinh dưỡng của heo mẹ không đòi hỏi lớn.
- Quá trình phát triển bào thai heo chia làm 3 giai đoạn:
- Tử cung lợn mẹ: Trong thời gian chửa, tử cung lợn nái không ngừng tăng trưởng về thể tích cũng như trọng lượng để đảm bảo cho bào thai phát triển được bình thường và chứa bào thai của heo lớn lên. Trong quá trình thay đổi này, tử cung của heo có nhiều thay đổi về cả kích thước, khối lượng và thành phần.
Tử cung heo nái tích luỹ nhiều glycogen, tương ứng 13 kg trọng lượng sơ sinh của heo con, có 2,5 kg nhau thai, 2 kg nước ối và tử cung heo mẹ phải tăng lên 3 - 4 kg mới ôm chứa đủ bào thai 1.3. Sự thay đổi cơ thể heo mẹ trong quá trình mang thai.
Trong thời gian có chửa heo mẹ không xuất hiện động dục, trao đổi chất tăng, “quá trình đồng hoá chiếm ưu thế hơn so với dị hoá”. Tính tình trở nên hiền lành và dễ chăm sóc nuôi dưỡng, tốc độ sinh trưởng nhanh.
Như vậy cơ thể mẹ và bào thai tăng nhanh theo thời gian chửa. Đặc biệt 60 ngày chửa đầu (trung bình 600 - 650 g/ ngày), sau đó giảm xuống (400 - 450 g/ ngày). Như vậy tăng trọng giai đoạn chửa đầu chủ yếu là tăng trọng cơ thể mẹ, còn tăng trọng giai đoạn cuối có chửa chủ yếu lại tăng trọng của bào thai và các tổ chức có liên quan. Do vậy dinh dưỡng đòi hỏi cung cấp cho heo mẹ trong giai đoạn có chửa ngày càng cao, nhất là giai đoạn tháng chửa cuối, nhưng điều này mâu thuẩn với khả năng ăn được của heo mẹ. Vì vậy để thoả mãn nhu cầu dinh dưỡng cho heo nái chửa tháng cuối, người chăn nuôi phải thu nhỏ dung tích của khẩu phần và chia nhỏ lượng thức ăn để cho heo mẹ ăn thêm bữa trong ngày. Những nghiên cứu gần đây cho biết nếu tăng lượng thức ăn cho heo mẹ trong giai đoạn có chửa sẽ làm giảm khả năng ăn vào của heo mẹ trong giai đoạn nuôi con. Trong giai đoạn có chửa, có thể có bị xẩy ra 2 loại tai biến đối với heo mẹ.
- Toàn bộ các thai bị chết, gây nên sẩy thai.
- Một phần thai bị chết, các thai khác tiếp tục phát triển. Trong trường hợp này các thai chết xen kẽ với các thai sống, chúng không bị đẩy ra mà có thể bị tiêu biến bởi thành tử cung (nếu bị chết sớm), thai bị khô (thai gỗ) và đẩy ra ngoài khi đẻ.
Nguyên nhân của tình trạng trên là:
- Lượng hormone thiếu do số lượng thể vàng không đủ, (< 5 thể vàng);
- Sự có mặt của heo con thừa nhiễm sắc thể;
- Nguyên nhân bệnh lý (bệnh sẩy thai truyền nhiễm);
- Dinh dưỡng thiếu hoặc kém cân bằng.
- Quá trình đẻ của heo: Quá trình phát triển bào thai đến một giai đoạn nhất định, khi thai đã phát triển hoàn chỉnh. heo nái có những biến đổi trong cơ thể, những biến đổi đó nhằm chuẩn bị cho heo đẻ dễ dàng đồng thời nó cũng giúp người chăn nuôi phát hiện để hộ lý đỡ đẻ cho chúng. Thời gian chửa của heo trung bình 114 ngày (112 - 116 ngày). Quá trình đẻ của heo được chia ra ở 4 thời kỳ:
- Thời kỳ mở cửa: Thân tử cung và sừng tử cung co bóp mạnh, lúc đầu co bóp ngắn, nghỉ dài về sau co bóp dài, nghỉ ngắn. Khi tử cung co bóp thai và nước màng thai ép vào cổ tử cung làm cho cổ tử cung mở ra, một bộ phận màng thai chui qua cổ tử cung vào âm đạo. Do các co bóp mạnh màng thai vỡ, nước ối chảy ra làm trơn đường thai ra.
- Thời kỳ thai ra: Lúc này cơ tử cung co bóp mạnh dồn dập kéo dài, cơ bụng, cơ hoành cũng co bóp làm cho áp lực trong xoang chậu tăng lên. Khi áp lực đạt cao nhất, thai đi qua cửa xoang chậu, qua âm đạo rồi ra ngoài. Khi thai ra rốn của chúng tự đứt rời khỏi dạ con.
- Thời kỳ nhau ra: Sau khi thai ra từ 1 - 6 h, do tử cung tiếp tục co bóp nên nhau thai sẽ được đẩy ra. Nếu sau 6 h nhau thai không ra hết là hiện tượng bị sát nhau, phải can thiệp kịp thời để tránh viêm tử cung cho heo mẹ.
- Thời gian hồi phục tử cung: Thời gian này phụ thuộc rất lớn vào ba giai đoạn trên của quá trình đẻ, thông thường 2 -3 ngày. Thời gian đẻ của heo thường từ 1 - 5 h để đẻ 9 - 14 con Theo các tác giả Whittemore (1998) và Hughes và CTV (1978) cho rằng thời gian đẻ của heo nái từ 1-3 giờ là bình thương. Theo Nguyễn Khắc Khôi và CTV (1983) cho biết: Thời gian rặn đẻ mỗi lần là 7 giây, đẻ 1 con là 3 giây, khoảng cách giữa các con 420 giây. heo mẹ đẻ bình thường (1 - 2 h). Nguyên nhân gây đẻ do Oestrogen của nhau thai tăng tiết đột ngột, làm tăng độ mẫn cảm của cơ trơn thành tử cung với oxytoxin, giải phóng ức chế progesteron. Do adrenalin Corticosteroid của tuyến thượng thận tăng tiết, ức chế tiết progesterone. Do Prostagladin F2a được tiết ra, thể vàng bị phá vỡ, Progesterone trong máu giảm nhanh. Do Relatin tăng tiết, kích thích tuyến yên tiết oxytoxine, tăng co bóp cơ tử cung. Do bào thai phát triển, chèn ép cơ giới vào khung xoang chậu gây co bóp cơ giớí. Do trilon B giảm, trilon A tăng, gây nên sự vận động mạnh của cơ tử cung. heo mẹ rặn mạnh, đẩy thai ra ngoài.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới số con đẻ ra/lứa và trọng lượng sơ sinh của heo con
- Những nhân tố ảnh hưởng tới số con đẻ ra/ lứa:
- Giống: heo Móng Cái đẻ 10 -15 con/ lứa, Yorkshire 8 -10 con/ lứa.
- Cá thể: Những nái đẻ lứa đầu ít (6 - 7 con), sẽ có số con đẻ ra/ lứa ở những lứa sau ít hơn so với những nái đẻ lứa đầu nhiều con (10 - 12 con).
- Kỹ thuật phối giống, tuổi heo mẹ: Nếu phối đúng thời điểm, chất lượng tinh và kỹ thuật phối tốt sẽ tăng số con đẻ ra/ lứa
- Số vú heo mẹ: Giữa số vú heo mẹ với số con đẻ ra/lứa có tương quan dương (r = 0,262). Do vậy khi chọn heo nái, nên chọn con có từ 12 vú trở lên.
- Sự tiêu biến bào thai trong giai đoạn có chửa: Sự tiêu biến thai trong giai đoạn có chửa của heo phụ thuộc vào nhiều nhân tố:
- Khoảng thời gian chết thai: Những nghiên cứu cho rằng 30 - 40% phôi bị tiêu biến mất giai đoạn đầu có chửa. Vì vậy nếu 100% số hợp tử hình thành thì tới lúc đẻ chỉ còn 60% số heo con. Do vậy giai đoạn 9 - 13 ngày sau khi phối là giai đoạn quan trọng nhất trong sự phát triển của phôi, vì giai đoạn này một số lượng lớn phôi bị tiêu biến.
- Sự hao hụt liên quan tới sự rụng trứng: Wrathall (1971) kết luận rằng tỷ lệ phôi sống giảm đi 1,24% cho mỗi tế bào trứng rụng tăng.
- Sự hao hụt cố hữu: Sự hao hụt này mang đặc tính của các phôi tử, khoảng 50% hao hụt ở giai đoạn blastocyst (Wrathall, 1971). Những gen có hại từ bố mẹ truyền cho hợp tử (Bishop, 1964).
- Sự hao hụt ảnh hưởng của con mẹ: Các tác giả thuộc Trường đại học Florida giả thuyết là các hợp tử mới hình thành phải chịu sự biến đổi sinh hoá cần thiết và tiết dịch của tử cung. Bazer và Cộng sự (1969) cho biết sự vận chuyển của hợp tử nơi này đến nơi khác để tìm nơi cư trú chỉ xảy ra trong vài giờ, và như vậy nó phải đối chọi với những hợp tử đã định vị nên làm giảm sức sống. Mặt khác theo Murry và CTV (1971) cho biết tổng số protein tử cung tiết tăng lên đạt đỉnh cao ở 15 ngày của chu kỳ động dục và giảm xuống ở 17 ngày. Stabenfeldt và CTV (1969) cho hay nồng độ Progesteron cao, trùng khớp với nồng độ tiết protein tử cung cao, sự tiết này có ảnh hưởng tới sự sống của phôi tử.
- Ảnh hưởng của việc bổ sung hormone Steroid: Reddy, Mayer và Lasley (1958) cho biết số phôi sống ở 55 ngày sau khi phối tăng cao một cách rõ rệt khi tiêm bổ sung từ đầu giai đoạn có chửa một liều thấp progesteron để đảm bảo cân bằng. Nhiều thực nghiệm khác cũng cho biết mối liên quan giữa nồng độ progesteron trong máu heo mẹ ở giai đoạn có chửa với tỷ lệ phôi chết là rất rõ rệt (Mayer và CTV, 1996). Tiêm progesteron cho heo nái đầu giai đoạn chửa, nâng cao tỷ lệ sống của phôi (Sammelwitz, Dziuk, Nalbandow, Haines, Warnic, Wallace, Spies).
- Ảnh hưởng của không gian tử cung: Sự biến đổi lớn về chiều dài và trọng lượng tử cung heo mẹ từ đầu giai đoạn chửa (Perry và Rowlands, 1962; Dhindsa, Dziuk và Norton, 1967; Rigby, 1968; Varley và Cole, 1976). Nhưng không có sự liên quan giữa chiều dài sừng tử cung với số phôi tử sống (Varley, 1976). Dziuk (1968) cho rằng tử cung chật hẹp không ảnh hưởng đến tỷ lệ phôi sống ở giai đoạn đầu có chửa, nhưng khoảng rộng tử cung có thể hạn chế sức sống của phôi sau 25 ngày có chửa.
- Ảnh hưởng của vi khuẩn: Sự nhiễm vi khuẩn ở tử cung có thể là nguyên nhân làm tiêu biến hợp tử. Scofield (1969) cho biết có khoảng 50% số nái sinh sản và nái hậu bị đều có nhiễm vi khuẩn tử cung. Hai chủng vi khuẩn tìm thấy ở tử cung là E. coli và Staphylococus albus. Số con đẻ ra ít, giảm tỷ lệ thụ thai nguyên nhân do nhiễm vi khuẩn (Evans, 1967). Khoảng 40% hợp tử tiêu biến do vi khuẩn. Vi khuẩn có thể xâm nhập vào tử cung heo mẹ trong giai đoạn phối tinh, hoặc từ tinh dịch heo đực làm giảm tỷ lệ thụ thai (Reed 1969). Do vậy phải đảm bảo vệ sinh tốt khi lấy tinh, phối tinh là cần thiết.
- Ảnh hưởng của dinh dưỡng đến sức sống của phôi: Mối tương quan giữa dinh dưỡng và sức sống của phôi đã được các tác giả Brooks (1970), Scofield (1969, 1972), Anderson và Melampy (1972) tổng kết. Các loại thức ăn có ảnh hưởng đặc biệt là vitamin và khoáng, có thể gây nên tiêu biến cả lứa đẻ. Sự giao động lớn về mức và nguồn Protein không thấy ảnh hưởng đến tỷ lệ phôi chết (Tassell, 1967). Các thực nghiệm về mức năng lượng ăn vào có ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của phôi kể từ giai đoạn động dục tới phối tinh hoặc ngay sau khi phối. Dutt và Chaney (1968) sử dụng 3 mức ăn ở giai đoạn phối tinh là 4,1; 2,4 và 1,2 kg/ ngày (ME là 51,2; 30,0 và 15,0 MJ), kết quả khi tăng mức ăn thì tỷ lệ phôi chết tăng lên ở nái hậu bị. Các nghiên cứu gần đây của Hughes cho biết rằng khi tăng mức ăn trước khi phối và hạn chế mức ăn trong tuần đầu sau khi phối sẽ tăng tỷ lệ thụ thai, tăng số con đẻ ra/lứa (bảng 2. 17).Mức ăn cao trước động dục đã nâng cao số tế bào trứng rụng quả khi tăng mức ăn thì tỷ lệ phôi chết tăng lên ở nái hậu bị. Các nghiên cứu gần đây của Hughes cho biết rằng khi tăng mức ăn trước khi phối và hạn chế mức ăn trong tuần đầu sau khi phối sẽ tăng tỷ lệ thụ thai, tăng số con đẻ ra/lứa (bảng 2. 17). Mức ăn cao trước động dục đã nâng cao số tế bào trứng rụng.
II. ĐẶC ĐIỂM SINH LÝ CỦA HEO NÁI CÓ CHỬA
1. Đặc điểm phát triển bào thai heo1.1. Đặc điểm phát triển bào thai và các tổ chức có liên quan- Đặc điểm phát triển bào thai: Ngay sau khi thụ tinh, hợp tử đã bắt đầu sử dụng chất dinh dưỡng của tử cung làm chất dinh dưỡng cho mình. Ngày thứ 11 hợp tử đã cắm sâu vào sừng tử cung gọi là hiện tượng làm tổ ở sừng tử cung. Ngày thứ 18 nhau thai hình thành và có chức năng rõ rệt. Tốc độ phát triển của bào thai rất nhanh. Như vậy thai càng lớn hàm lượng nước càng giảm, lượng vật chất khô tích luỹ càng tăng, lipid, protein tích luỹ tăng. Vì vậy nhu cầu dinh dưỡng của heo mẹ sẽ tăng. Nhưng thực tế thì trong giai đoạn có chửa, nội tiết thay đổi dẫn tới quá trình trao đổi chất của heo mẹ thay đổi theo phương thức "đồng hoá chiếm ưu thế so với dị hoá", nên nhu cầu dinh dưỡng của heo mẹ không đòi hỏi lớn.
- Quá trình phát triển bào thai heo chia làm 3 giai đoạn:
- Giai đoạn phôi thai: Từ ngày có chửa thứ 1 đến ngày thứ 22, hình thành các mầm mống của các bộ phận cơ thể và chính ở giai đoạn này là giai đoạn quan trọng cho việc tạo ra các cơ quan ban đầu của cơ thể heo
- Giai đoạn tiền bào thai: Từ ngày có chửa thứ 23 đến ngày thứ 38, giai đoạn này tiếp tục hình thành các tổ chức sụn, cơ, hệ thần kinh, tuyến sữa, đặc tính của giống, tính đực, cái và các đặc điểm cấu tạo cơ thể của heo.
- Giai đoạn phát triển bào thai: Từ ngày thứ 39 đến ngày thứ 114, khối lượng và thể tích bào thai tăng lên rất nhanh, chiều dài thân, cao vai phát triển mạnh, bộ xương được hình thành, các cơ quan nội tạng và bốn chân phát triển rõ.
- Tử cung lợn mẹ: Trong thời gian chửa, tử cung lợn nái không ngừng tăng trưởng về thể tích cũng như trọng lượng để đảm bảo cho bào thai phát triển được bình thường và chứa bào thai của heo lớn lên. Trong quá trình thay đổi này, tử cung của heo có nhiều thay đổi về cả kích thước, khối lượng và thành phần.
Tử cung heo nái tích luỹ nhiều glycogen, tương ứng 13 kg trọng lượng sơ sinh của heo con, có 2,5 kg nhau thai, 2 kg nước ối và tử cung heo mẹ phải tăng lên 3 - 4 kg mới ôm chứa đủ bào thai 1.3. Sự thay đổi cơ thể heo mẹ trong quá trình mang thai.
Trong thời gian có chửa heo mẹ không xuất hiện động dục, trao đổi chất tăng, “quá trình đồng hoá chiếm ưu thế hơn so với dị hoá”. Tính tình trở nên hiền lành và dễ chăm sóc nuôi dưỡng, tốc độ sinh trưởng nhanh.
Như vậy cơ thể mẹ và bào thai tăng nhanh theo thời gian chửa. Đặc biệt 60 ngày chửa đầu (trung bình 600 - 650 g/ ngày), sau đó giảm xuống (400 - 450 g/ ngày). Như vậy tăng trọng giai đoạn chửa đầu chủ yếu là tăng trọng cơ thể mẹ, còn tăng trọng giai đoạn cuối có chửa chủ yếu lại tăng trọng của bào thai và các tổ chức có liên quan. Do vậy dinh dưỡng đòi hỏi cung cấp cho heo mẹ trong giai đoạn có chửa ngày càng cao, nhất là giai đoạn tháng chửa cuối, nhưng điều này mâu thuẩn với khả năng ăn được của heo mẹ. Vì vậy để thoả mãn nhu cầu dinh dưỡng cho heo nái chửa tháng cuối, người chăn nuôi phải thu nhỏ dung tích của khẩu phần và chia nhỏ lượng thức ăn để cho heo mẹ ăn thêm bữa trong ngày. Những nghiên cứu gần đây cho biết nếu tăng lượng thức ăn cho heo mẹ trong giai đoạn có chửa sẽ làm giảm khả năng ăn vào của heo mẹ trong giai đoạn nuôi con. Trong giai đoạn có chửa, có thể có bị xẩy ra 2 loại tai biến đối với heo mẹ.
- Toàn bộ các thai bị chết, gây nên sẩy thai.
- Một phần thai bị chết, các thai khác tiếp tục phát triển. Trong trường hợp này các thai chết xen kẽ với các thai sống, chúng không bị đẩy ra mà có thể bị tiêu biến bởi thành tử cung (nếu bị chết sớm), thai bị khô (thai gỗ) và đẩy ra ngoài khi đẻ.
Nguyên nhân của tình trạng trên là:
- Lượng hormone thiếu do số lượng thể vàng không đủ, (< 5 thể vàng);
- Sự có mặt của heo con thừa nhiễm sắc thể;
- Nguyên nhân bệnh lý (bệnh sẩy thai truyền nhiễm);
- Dinh dưỡng thiếu hoặc kém cân bằng.
- Quá trình đẻ của heo: Quá trình phát triển bào thai đến một giai đoạn nhất định, khi thai đã phát triển hoàn chỉnh. heo nái có những biến đổi trong cơ thể, những biến đổi đó nhằm chuẩn bị cho heo đẻ dễ dàng đồng thời nó cũng giúp người chăn nuôi phát hiện để hộ lý đỡ đẻ cho chúng. Thời gian chửa của heo trung bình 114 ngày (112 - 116 ngày). Quá trình đẻ của heo được chia ra ở 4 thời kỳ:
- Thời kỳ mở cửa: Thân tử cung và sừng tử cung co bóp mạnh, lúc đầu co bóp ngắn, nghỉ dài về sau co bóp dài, nghỉ ngắn. Khi tử cung co bóp thai và nước màng thai ép vào cổ tử cung làm cho cổ tử cung mở ra, một bộ phận màng thai chui qua cổ tử cung vào âm đạo. Do các co bóp mạnh màng thai vỡ, nước ối chảy ra làm trơn đường thai ra.
- Thời kỳ thai ra: Lúc này cơ tử cung co bóp mạnh dồn dập kéo dài, cơ bụng, cơ hoành cũng co bóp làm cho áp lực trong xoang chậu tăng lên. Khi áp lực đạt cao nhất, thai đi qua cửa xoang chậu, qua âm đạo rồi ra ngoài. Khi thai ra rốn của chúng tự đứt rời khỏi dạ con.
- Thời kỳ nhau ra: Sau khi thai ra từ 1 - 6 h, do tử cung tiếp tục co bóp nên nhau thai sẽ được đẩy ra. Nếu sau 6 h nhau thai không ra hết là hiện tượng bị sát nhau, phải can thiệp kịp thời để tránh viêm tử cung cho heo mẹ.
- Thời gian hồi phục tử cung: Thời gian này phụ thuộc rất lớn vào ba giai đoạn trên của quá trình đẻ, thông thường 2 -3 ngày. Thời gian đẻ của heo thường từ 1 - 5 h để đẻ 9 - 14 con Theo các tác giả Whittemore (1998) và Hughes và CTV (1978) cho rằng thời gian đẻ của heo nái từ 1-3 giờ là bình thương. Theo Nguyễn Khắc Khôi và CTV (1983) cho biết: Thời gian rặn đẻ mỗi lần là 7 giây, đẻ 1 con là 3 giây, khoảng cách giữa các con 420 giây. heo mẹ đẻ bình thường (1 - 2 h). Nguyên nhân gây đẻ do Oestrogen của nhau thai tăng tiết đột ngột, làm tăng độ mẫn cảm của cơ trơn thành tử cung với oxytoxin, giải phóng ức chế progesteron. Do adrenalin Corticosteroid của tuyến thượng thận tăng tiết, ức chế tiết progesterone. Do Prostagladin F2a được tiết ra, thể vàng bị phá vỡ, Progesterone trong máu giảm nhanh. Do Relatin tăng tiết, kích thích tuyến yên tiết oxytoxine, tăng co bóp cơ tử cung. Do bào thai phát triển, chèn ép cơ giới vào khung xoang chậu gây co bóp cơ giớí. Do trilon B giảm, trilon A tăng, gây nên sự vận động mạnh của cơ tử cung. heo mẹ rặn mạnh, đẩy thai ra ngoài.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới số con đẻ ra/lứa và trọng lượng sơ sinh của heo con
- Những nhân tố ảnh hưởng tới số con đẻ ra/ lứa:
- Giống: heo Móng Cái đẻ 10 -15 con/ lứa, Yorkshire 8 -10 con/ lứa.
- Cá thể: Những nái đẻ lứa đầu ít (6 - 7 con), sẽ có số con đẻ ra/ lứa ở những lứa sau ít hơn so với những nái đẻ lứa đầu nhiều con (10 - 12 con).
- Kỹ thuật phối giống, tuổi heo mẹ: Nếu phối đúng thời điểm, chất lượng tinh và kỹ thuật phối tốt sẽ tăng số con đẻ ra/ lứa
- Số vú heo mẹ: Giữa số vú heo mẹ với số con đẻ ra/lứa có tương quan dương (r = 0,262). Do vậy khi chọn heo nái, nên chọn con có từ 12 vú trở lên.
- Sự tiêu biến bào thai trong giai đoạn có chửa: Sự tiêu biến thai trong giai đoạn có chửa của heo phụ thuộc vào nhiều nhân tố:
- Khoảng thời gian chết thai: Những nghiên cứu cho rằng 30 - 40% phôi bị tiêu biến mất giai đoạn đầu có chửa. Vì vậy nếu 100% số hợp tử hình thành thì tới lúc đẻ chỉ còn 60% số heo con. Do vậy giai đoạn 9 - 13 ngày sau khi phối là giai đoạn quan trọng nhất trong sự phát triển của phôi, vì giai đoạn này một số lượng lớn phôi bị tiêu biến.
- Sự hao hụt liên quan tới sự rụng trứng: Wrathall (1971) kết luận rằng tỷ lệ phôi sống giảm đi 1,24% cho mỗi tế bào trứng rụng tăng.
- Sự hao hụt cố hữu: Sự hao hụt này mang đặc tính của các phôi tử, khoảng 50% hao hụt ở giai đoạn blastocyst (Wrathall, 1971). Những gen có hại từ bố mẹ truyền cho hợp tử (Bishop, 1964).
- Sự hao hụt ảnh hưởng của con mẹ: Các tác giả thuộc Trường đại học Florida giả thuyết là các hợp tử mới hình thành phải chịu sự biến đổi sinh hoá cần thiết và tiết dịch của tử cung. Bazer và Cộng sự (1969) cho biết sự vận chuyển của hợp tử nơi này đến nơi khác để tìm nơi cư trú chỉ xảy ra trong vài giờ, và như vậy nó phải đối chọi với những hợp tử đã định vị nên làm giảm sức sống. Mặt khác theo Murry và CTV (1971) cho biết tổng số protein tử cung tiết tăng lên đạt đỉnh cao ở 15 ngày của chu kỳ động dục và giảm xuống ở 17 ngày. Stabenfeldt và CTV (1969) cho hay nồng độ Progesteron cao, trùng khớp với nồng độ tiết protein tử cung cao, sự tiết này có ảnh hưởng tới sự sống của phôi tử.
- Ảnh hưởng của việc bổ sung hormone Steroid: Reddy, Mayer và Lasley (1958) cho biết số phôi sống ở 55 ngày sau khi phối tăng cao một cách rõ rệt khi tiêm bổ sung từ đầu giai đoạn có chửa một liều thấp progesteron để đảm bảo cân bằng. Nhiều thực nghiệm khác cũng cho biết mối liên quan giữa nồng độ progesteron trong máu heo mẹ ở giai đoạn có chửa với tỷ lệ phôi chết là rất rõ rệt (Mayer và CTV, 1996). Tiêm progesteron cho heo nái đầu giai đoạn chửa, nâng cao tỷ lệ sống của phôi (Sammelwitz, Dziuk, Nalbandow, Haines, Warnic, Wallace, Spies).
- Ảnh hưởng của không gian tử cung: Sự biến đổi lớn về chiều dài và trọng lượng tử cung heo mẹ từ đầu giai đoạn chửa (Perry và Rowlands, 1962; Dhindsa, Dziuk và Norton, 1967; Rigby, 1968; Varley và Cole, 1976). Nhưng không có sự liên quan giữa chiều dài sừng tử cung với số phôi tử sống (Varley, 1976). Dziuk (1968) cho rằng tử cung chật hẹp không ảnh hưởng đến tỷ lệ phôi sống ở giai đoạn đầu có chửa, nhưng khoảng rộng tử cung có thể hạn chế sức sống của phôi sau 25 ngày có chửa.
- Ảnh hưởng của vi khuẩn: Sự nhiễm vi khuẩn ở tử cung có thể là nguyên nhân làm tiêu biến hợp tử. Scofield (1969) cho biết có khoảng 50% số nái sinh sản và nái hậu bị đều có nhiễm vi khuẩn tử cung. Hai chủng vi khuẩn tìm thấy ở tử cung là E. coli và Staphylococus albus. Số con đẻ ra ít, giảm tỷ lệ thụ thai nguyên nhân do nhiễm vi khuẩn (Evans, 1967). Khoảng 40% hợp tử tiêu biến do vi khuẩn. Vi khuẩn có thể xâm nhập vào tử cung heo mẹ trong giai đoạn phối tinh, hoặc từ tinh dịch heo đực làm giảm tỷ lệ thụ thai (Reed 1969). Do vậy phải đảm bảo vệ sinh tốt khi lấy tinh, phối tinh là cần thiết.
- Ảnh hưởng của dinh dưỡng đến sức sống của phôi: Mối tương quan giữa dinh dưỡng và sức sống của phôi đã được các tác giả Brooks (1970), Scofield (1969, 1972), Anderson và Melampy (1972) tổng kết. Các loại thức ăn có ảnh hưởng đặc biệt là vitamin và khoáng, có thể gây nên tiêu biến cả lứa đẻ. Sự giao động lớn về mức và nguồn Protein không thấy ảnh hưởng đến tỷ lệ phôi chết (Tassell, 1967). Các thực nghiệm về mức năng lượng ăn vào có ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của phôi kể từ giai đoạn động dục tới phối tinh hoặc ngay sau khi phối. Dutt và Chaney (1968) sử dụng 3 mức ăn ở giai đoạn phối tinh là 4,1; 2,4 và 1,2 kg/ ngày (ME là 51,2; 30,0 và 15,0 MJ), kết quả khi tăng mức ăn thì tỷ lệ phôi chết tăng lên ở nái hậu bị. Các nghiên cứu gần đây của Hughes cho biết rằng khi tăng mức ăn trước khi phối và hạn chế mức ăn trong tuần đầu sau khi phối sẽ tăng tỷ lệ thụ thai, tăng số con đẻ ra/lứa (bảng 2. 17).Mức ăn cao trước động dục đã nâng cao số tế bào trứng rụng quả khi tăng mức ăn thì tỷ lệ phôi chết tăng lên ở nái hậu bị. Các nghiên cứu gần đây của Hughes cho biết rằng khi tăng mức ăn trước khi phối và hạn chế mức ăn trong tuần đầu sau khi phối sẽ tăng tỷ lệ thụ thai, tăng số con đẻ ra/lứa (bảng 2. 17). Mức ăn cao trước động dục đã nâng cao số tế bào trứng rụng.
TINLIÊN QUAN
Tránh tác hại của nhiệt độ trong sản xuất thức ăn (TĂ) gia súc
Nguyên tắc khi sử dụng vaccine
Các loại vaccin dùng trong chăn nuôi
Quản lý vắc – xin dịch tả heo
PENICILLIN
Tetracylin
Phương pháp sử dụng kháng sinh Streptomycin
Phương pháp dùng kháng sinh
Những điều cần biết khi dùng kháng sinh
Sự lạm dụng kháng sinh và kháng kháng sinh
Mục tiêu của nhà chọn giống
Phương pháp chọn giống
Hướng dẫn chọn nọc giống cho nhà chăn nuôi
Các hệ thống lai trong chăn nuôi heo
Các nguyên lý về giống và di truyền
Nâng cao năng suất sinh sản bò cái
Hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp trên heo (PRRS)
Bệnh bại liệt trước khi sinh
Bệnh nhiễm ký sinh trùng
Quản lý trại đẻ
Tiêu chuẩn VIETGAHP
Vai trò của nước trong chăn nuôi heo
Chăm sóc heo nái nuôi con